Hydrogen Peroxide
Hydrogen peroxide (H2O2) đã được sử dụng làm chất bơm rửa nội nha trong nhiều năm, chủ yếu ở nồng độ từ 3% đến 5%. Nó hoạt động chống lại vi khuẩn, virus và nấm men. Các gốc tự do hydroxy (• OH) phá hủy protein và DNA. Khả năng hòa tan mô của H2O2 rõ ràng thấp hơn so với NaOCl. Hiện nay, chất này không còn được khuyến khích sử dụng như một chất bơm rửa thông thường.
NaOCl (Sodium hypochlorite)
Đây là một chất kiềm thường dùng để sát khuẩn ống tủy và dung dịch NaOCl 3-5% được sử dụng để bơm rửa làm sạch ống tuỷ.
Tác dụng của NaOCl là làm thay đổi độ pH, làm tan các chất đạm, xà phòng hóa mỡ, làm đông tế bào. Ngoài ra, nó còn làm trơn và sạch các thành ống tủy, đẩy các chất bẩn trong tủy ra do quá trình bốc hơi của nó. Loại bỏ mùi hôi do làm tan các tổ chức hoại tử và độc tố. Tác dụng phụ của dung dịch là gây kích thích tổ chức quanh cuống răng.
Chlorhexidine
Chlorhexidine được nghiên cứu rộng rãi như là một loại thuốc bơm rửa và đặt trong ống tuỷ, cả nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và trên lâm sàng. Trong nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, Chlorhexidine ít nhất có hiệu quả kháng khuẩn tốt hơn cả Ca(OH)2. Đáng chú ý là Chlorhexidine 2% rất hiệu quả trong việc loại bỏ màng sinh học của E.faecalis. Trong nghiên cứu lâm sàng, nó ức chế ngoại tiêu chân răng do viêm khi đặt trong vòng 4 tuần. Ở những ống tuỷ bị nhiễm khuẩn, nó giảm vi khuẩn hiệu quả như Ca(OH)2 khi đặt trong 1 tuần.
Calcium hydroxide Ca(OH)2
Mặc dù không có đặc tính sát khuẩn, nhưng thực nghiệm nghiên cứu cho thấy thực tế Calcium Hydroxide là một tác nhân chống vi khuẩn, độ pH kiềm có hiệu quả trong việc loại bỏ các vi khuẩn chân răng, ngoại trừ E.faecalis.
Calcium Hydroxide hấp thu rất mạnh CO2 ống tủy làm cạn kiệt nguồn thức ăn của vi khuẩn kỵ khí. Ngoài ra Calcium hydroxide có khả năng thủy phân lipopolysaccharides của vi khuẩn làm cho chúng không thể sản xuất ra những tác nhân sinh học như chất độc, gây sốt, hoạt hóa đại thực bào và bổ thể.
Tuy nhiên, Ca(OH)2 không có tác dụng nếu chỉ sử dụng ngắn hạn, nó không được khuyến cáo sử dụng như là một chất tẩy rửa mà chỉ dùng như thuốc băng giữa các lần hẹn. Để đạt tác dụng kháng khuẩn lý tưởng, phải có nhiệt độ cao hoặc tác động lâu dài.
Formaldehyde
Dung dịch Formaldehyde thường được sử dụng để làm các chế phẩm sát trùng ống tủy. Dung dịch này làm biến chất và kết tủa protid của tổ chức và vi khuẩn.
Formaldehyde 10% thường được sử dụng với tác dụng diệt vi khuẩn và làm khô bằng cách bay hơi, do đó nó còn có khả năng dùng để băng ống tuỷ
Các dẫn xuất của Phenol
CMC hay CPC là camphorated parachlorophenol, cả 2 đều là dẫn xuất của phenol , được Walkoff tìm ra năm 1891 và được sử dụng rộng rãi nhất để băng thuốc trong những thập niên trước. Có tính kháng khuẩn và nấm thông thường xuất hiện trong trường hợp nội nha bị nhiễm trùng. Hiệu quả khi tiếp xúc với máu, mủ và protein; có tác dụng khử trùng và tác dụng này phụ thuộc vào sự phóng thích chậm của chất chlor với sự hiện diện của phenol. CMCP thì ít kích thích mô quanh chóp hơn eugenol.
Pear đã chứng minh là không cần thiết phải dùng một lượng nhiều thuốc. Theo Taylor chứng minh dung dịch nước parachlorophenol (PCP- cũng là chất thuộc nhóm phenolic) 2% thì hiệu quả hơn là dung dịch camphré 30%. Do đó người ta có thể thay thế chất CMCP bằng chất PCP 2% . Thuốc này được chỉ định trong trường hợp ống tủy bị nhiễm trùng.
Nhận xét
Đăng nhận xét